Tại họp báo, bà Nguyễn Thị Hương đã công bố những chỉ tiêu chủ yếu về tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam trong quý IV và năm 2023.
Tại họp báo, bà Nguyễn Thị Hương đã công bố những chỉ tiêu chủ yếu về tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam trong quý IV và năm 2023.
Số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đã tăng hơn 200% vào năm ngoái lên gần 13 triệu người (tương đương mức tăng từ 20% so với trước COVID-19 vào năm 2022 lên 70% so với trước COVID-19 vào năm 2023). Sự gia tăng đột biến đó trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng GDP, nhưng VinaCapital ước tính chi tiêu của khách du lịch quốc tế chỉ chiếm khoảng 10% doanh số bán lẻ tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, chúng tôi nghi nhận rằng du lịch quốc tế còn mang lại nguồn thu cho nhiều đơn vị kinh doanh trong nước, qua đó gián tiếp thúc đẩy nền kinh tế. Chúng tôi ước tính tổng đóng góp của ngành du lịch cho nền kinh tế Việt Nam - bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp - chiếm hơn 15% GDP.
Tại Việt Nam, lượng du khách Mỹ đã cao hơn nhiều so với mức trước COVID-19 và chi tiêu của nhóm du khách này đã đóng góp vào tỉ lệ lấp đầy phòng tăng cao tại các khách sạn cao cấp - Ảnh: VGP
Sự phục hồi của lượng khách du lịch Trung Quốc và Mỹ
Tỉ lệ người tiêu dùng Trung Quốc có ý định đi du lịch nước ngoài tăng gần gấp đôi so với năm ngoái - tới gần 2/3 số người được khảo sát (theo bloomberg) và tỉ lệ người tiêu dùng Mỹ có kế hoạch đi du lịch nước ngoài trong sáu tháng tới cũng tăng gấp đôi so với mức trước COVID-19 - đạt mức cao kỷ lục.
Trong 5 tháng đầu năm 2024, lượng du khách Trung Quốc đến Việt Nam tăng hơn 300% so với cùng kỳ, đạt mức 75% trước dịch COVID-19. Học viện Du lịch Trung Quốc dự kiến khách Trung Quốc du lịch nước ngoài sẽ vượt mức 80% so với trước COVID-19 trong năm nay, vì vậy VinaCapital kỳ vọng rằng lượng khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam sẽ phục hồi từ mức 30% trước COVID-19 trong năm ngoái lên đến 85% trong năm nay.
Sự phục hồi một phần này là cơ sở cho dự báo của chúng tôi rằng tổng lượng khách du lịch đến Việt Nam sẽ tăng từ mức 70% trước COVID-19 vào năm ngoái lên khoảng 105% trước COVID-19 vào năm nay (tương đương 19 triệu lượt khách).
Trung Quốc và Nhật Bản là hai quốc gia lớn trên thế giới mà du lịch ra nước ngoài vẫn chưa phục hồi về mức trước COVID-19 (Trung Quốc dẫn đầu thế giới về chi tiêu của người dân khi du lịch ra nước ngoài trước COVID-19). Sự phục hồi chậm chạp của Trung Quốc xuất phát từ việc nước này mới dỡ bỏ các hạn chế từ chính sách "Zero COVID" vào năm ngoái cộng với tình trạng kinh tế tương đối yếu của nước này, mặc dù chi tiêu du lịch nội địa của Trung Quốc dự kiến sẽ vượt mức trước COVID-19 trong năm nay. Trong khi đó ở Nhật Bản, giá trị đồng Yên sụt giảm mạnh đang cản trở hoạt động du lịch nước ngoài của người dân.
Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng mạnh mẽ hỗ trợ ngành du lịch
Một bài báo gần đây trên Wall Street Journal với tiêu đề "Người Mỹ đang có thu nhập từ đầu tư nhiều hơn bao giờ hết" đã nhấn mạnh rằng thu nhập từ đầu tư và tài sản của các hộ gia đình tăng lên đang mang lại một lượng tiền mặt chưa từng có cho hàng triệu người Mỹ (đặc biệt là thế hệ "Baby Boomers", nhóm đang chi tiêu mạnh tay cho các dịch vụ đắt tiền như du lịch nước ngoài).
Thu nhập từ lãi suất và cổ tức mà người tiết kiệm ở Mỹ kiếm được đang tăng vọt, dự kiến sẽ tăng gần 5 lần, từ 770 tỷ USD vào năm 2020 lên 3,7 nghìn tỷ USD trong năm nay và có nhiều dẫn chứng chỉ ra rằng một phần của lượng tiền đó sẽ được đổ vào du lịch.
Tại Việt Nam, lượng du khách Mỹ đã cao hơn nhiều so với mức trước COVID-19 và chi tiêu của nhóm du khách này đã đóng góp vào tỉ lệ lấp đầy phòng tăng cao tại các khách sạn cao cấp.
VinaCapital kỳ vọng số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam sẽ tăng 40% trong năm nay sau khi tăng gần 250% vào năm ngoái nhờ sự phục hồi liên tục của khách du lịch đến từ Trung Quốc. Du lịch quốc tế chiếm khoảng 8% GDP của Việt Nam trước COVID-19. Vì vậy sự phục hồi ban đầu của ngành du lịch Việt Nam sau khi mở cửa trở lại sau COVID-19 vào tháng 3/2022 đã đóng góp thêm hơn 4 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP của năm ngoái. Năm nay, chúng tôi kỳ vọng lượng khách du lịch quốc tế tiếp tục phục hồi và sẽ đóng góp thêm hơn 1 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP của Việt Nam.
Cuối cùng, doanh thu của các công ty liên quan đến du lịch như công ty quản lý, điều hành sân bay và các hãng hàng không đã tăng vọt trong năm nay, tương tự như tỉ lệ lấp đầy của các tổ hợp nghỉ dưỡng cao cấp, bao gồm cả những tổ hợp do Lodgis sở hữu và vận hành.
Michael Kokalari, Chuyên gia của CFA, VinaCapital
Tóm tắt: Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ quốc gia có thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình. Song, những khó khăn nội tại và thách thức bên ngoài của nền kinh tế làm cho nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là có thể. Từ quan niệm về bẫy thu nhập trung bình, bài viết chỉ ra các nguy cơ sập bẫy thu nhập trung bình của Việt Nam và đưa ra một số hàm ý chính sách để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Từ khóa: Bẫy thu nhập trung bình; chuyển dịch cơ cấu kinh tế; năng suất lao động.
OVERCOMING THE MIDDLE-INCOME TRAP: A LOOK FROM THE VIETNAM ECONOMY SITUATION TODAY
Abstract: Recently, Vietnam has achieved important achievements in the transition from a low-income country to a middle-income country. However, the internal difficulties and external challenges of the economy make the risk of Vietnam falling into the middle-income trap possible. Based on the concept of the middle-income trap, the article points out the risks of falling into the middle-income trap in Vietnam and offers some policy implications for Vietnam to overcome the middle-income trap. Keywords: Middle income trap; economic restructuring; labor productivity. 1. Đặt vấn đề Khái niệm bẫy thu nhập trung bình trong những năm gần đây đã trở nên quen thuộc với các nhà phân tích và các chuyên gia kinh tế. Đây được xem là “tấm trần thủy tinh” vô hình ngăn cản nhiều quốc gia trên thế giới vươn tới mức thu nhập cao. Cho đến nay, chưa có một định nghĩa chính xác về bẫy thu nhập trung bình. Hầu hết các khái niệm đề cập đến bẫy thu nhập trung bình đều dưới dạng mô tả những điểm đặc trưng của các nước được cho là đang rơi vào bẫy. Theo thuật ngữ kinh tế, bẫy thu nhập trung bình là khái niệm chỉ tình trạng một quốc gia thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng mất nhiều thập kỷ vẫn không trở thành quốc gia phát triển. Bẫy thu nhập trung bình xảy ra khi một nước bị mắc kẹt tại mức thu nhập trung bình đã đạt được nhờ khai thác tài nguyên và những lợi thế nhất định ban đầu như lao động giá rẻ, mà không được vượt qua được ngưỡng đó để đưa thu nhập lên mức cao hơn1. Theo cách xếp loại của Ngân hàng Thế giới (tính từ ngày 01/7/2012), một nước được coi là thu nhập thấp nếu tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người/năm đạt thấp hơn hoặc bằng 1.025 USD, nước có thu nhập trung bình thấp nếu GNI bình quân dao động từ 1.026 USD - 4.035 USD, nước có thu nhập trung bình cao nếu GNI bình quân rơi vào khoảng 4.036 USD - 12.475 USD và thu nhập cao nếu GNI bình quân ở mức trên 12.476 USD. Như vậy, theo cách hiểu này, nước có thu nhập trung bình là các quốc gia có GNI bình quân đầu người vào khoảng từ 1.026 USD đến 12.475 USD. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2023, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 101,9 triệu đồng/người, tương đương khoảng 4.284 USD, tốc độ tăng trưởng đạt 5,05%. Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng khá cao so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. Kinh tế vĩ mô cơ bản giữ ổn định, kiểm soát được lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn, kinh tế trong nước tiếp tục xu hướng phục hồi. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn tại những nút thắt, đó là chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, các cân đối vĩ mô chưa vững chắc, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chưa đáp ứng được yêu cầu… Vì vậy, Việt Nam vẫn có thể vướng bẫy thu nhập trung bình. 2. Nhận diện các nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình Một là, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam chưa được như kỳ vọng. Cụ thể, từ năm 2020 đến nay, do chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 và những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thế giới, nên thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng chậm. Năm 2019, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 3.425 USD; sau đó, tăng lên 3.526 USD vào năm 2020; năm 2021 là 3.694 USD; năm 2022 là 4.120 USD; đến năm 2023, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022. Có thể nói, sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm qua đang đặt ra một số thách thức về khả năng thu hẹp khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực. Gần 40 năm qua, nền kinh tế Việt Nam trải qua ba đợt khủng hoảng vào các năm 1997 - 1999; 2008 - 2011 và 2020 - 2021. Sau mỗi kỳ khủng hoảng, kinh tế nước ta có xu hướng tăng trưởng chậm lại. Cụ thể như, tăng trưởng kinh tế bình quân cả nước thời kỳ 1991 - 2000 khoảng 7,6%; thời kỳ 2000 - 2010 khoảng 6,6% và thời kỳ 2011 - 2020 là khoảng 6%. Chính tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại và kéo dài trong nhiều năm là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang chững lại. Hai là, đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) chiếm tỉ lệ thấp. Mặc dù tăng liên tục qua các năm, tốc độ tăng TFP của Việt Nam còn khiêm tốn và chưa có đột phá. Giai đoạn 2011 - 2020, TFP tăng bình quân 2,51%/năm, trong đó giai đoạn 2011 - 2015 tăng 2,15%/năm; giai đoạn 2016 - 2019 tăng 3,37%/năm; năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên TFP chỉ tăng 0,96%. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020, TFP của Việt Nam tăng 2,88%/năm2. Tuy nhiên, sự gia tăng của năng suất các yếu tố tổng hợp không phải do sự phát triển vượt trội hơn của chính yếu tố này mà là do có sự suy giảm về quy mô ở mức cần thiết để duy trì tốc độ tăng trưởng theo dự kiến. Sự đóng góp còn khiêm tốn của yếu tố TFP đã cho thấy, tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua vẫn được thực hiện theo mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, sự tăng trưởng cũng nghiêng về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động. Nếu tình trạng này còn kéo dài sẽ làm cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không bền vững. Mặt khác, hiệu quả và năng suất đầu tư công của Việt Nam còn thấp. Chúng ta biết rằng, đầu tư công ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông qua: (i) Hiệu quả, tức là một lượng đầu tư công nhất định mang lại bao nhiêu về cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế; (ii) Năng suất, tức cơ sở hạ tầng vật chất được tạo ra tác động lan tỏa đến nền kinh tế như thế nào. Ở các nước đang phát triển có thu nhập thấp, tỉ lệ đầu tư công khoảng 7% GDP (năm 2018). Đầu tư công ở các nền kinh tế mới nổi thường dao động từ 5 - 7% GDP. Tại Việt Nam, năm 2023, đầu tư công chiếm khoảng 6,8% GDP, tương đương các nền kinh tế mới nổi3. Như vậy, hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam cao hơn một chút so với các nền kinh tế đang phát triển thu nhập thấp và thấp hơn các nền kinh tế mới nổi. Còn về năng suất đầu tư công, Việt Nam nằm giữa nhóm các nước có nền kinh tế mới nổi và các nước phát triển. Ba là, năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Trong hai thập kỷ gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao năng suất lao động, nhờ đó năng suất lao động đã có những cải thiện đáng kể cả về giá trị và tốc độ. Mặc dù năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 tăng bình quân 5,4%/năm, nhưng vẫn ở mức thấp trong khối ASEAN. Tuy nhiên, so với các quốc gia trong cùng khu vực, sự chênh lệch năng suất lao động của Việt Nam càng trở nên rõ nét. Theo tính toán của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn 7 lần so với Malaysia; 4 lần so với Trung Quốc; 3 lần so với Thái Lan; 2 lần so với Philippines và 26 lần so với Singapore. Năng suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia (gấp 2,4 lần); Myanmar (1,6 lần); Lào (1,2 lần). Để bắt kịp năng suất lao động và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần tăng trưởng năng suất lao động liên tục với tốc độ 6,3 - 7,3%/năm. Gần đây, năng suất lao động của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm. Theo đó, so với năm liền kề trước, năng suất lao động năm 2018 tăng 5,55% và năm 2019 tăng 6,28%; năm 2020 tăng khoảng 1,5 lần so với năm 2015. Năm 2023, năng suất lao động của toàn nền kinh tế ước đạt 199,3 triệu đồng/lao động (tương đương 8.380 USD/lao động, tăng 274 USD so với năm 2022); theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 3,65% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2023 ước đạt 27%, cao hơn 0,6 điểm phần trăm so với năm 2022)4. Mức tăng toàn xã hội bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 5,8%/năm, cao hơn so với mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011 - 2015. Tuy vậy, mức tăng này là chưa đủ để giúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Mặt khác, vẫn còn khoảng cách về năng suất lao động giữa các ngành kinh tế ở Việt Nam. Năng suất lao động của nhóm ngành công nghiệp cao hơn nhóm ngành dịch vụ và gấp khoảng 3 - 3,5 lần năng suất lao động ngành nông nghiệp. Bốn là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Dù Việt Nam đã có những bước chuyển tích cực về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cụ thể trong giai đoạn 2010 - 2022, tỉ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản có xu hướng giảm từ 15,38% xuống 11,88%; tỉ trọng dịch vụ tăng từ 40,63% lên 41,33%; tỉ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 33,02% lên mức 38,26%5. Động lực chính của quá trình chuyển đổi là từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chứ không phải các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp trong nước tuy có sự cải thiện trong đóng góp vào kim ngạch xuất, nhập khẩu, nhưng lại kém cạnh tranh trong việc tác động vào cán cân thương mại. Năm 2023, cơ cấu nền kinh tế khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỉ trọng 11,96%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,12%; khu vực dịch vụ chiếm 42,54%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,38% (cơ cấu tương ứng của năm 2022 là 11,96%; 38,17%; 41,32%; 8,55%)6. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực đang nắm giữ. Song song đó, hiệu quả đầu tư của Việt Nam thấp thể hiện qua chỉ số ICOR vẫn tiếp tục tăng và ở mức cao. Chỉ số ICOR giai đoạn 2010 - 2019 đạt 5,9, các năm 2020 - 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, chỉ số ICOR (hiệu quả sử dụng vốn đầu tư) tăng vọt lên mức 12,47 và 15,51. Tuy nhiên, trong năm 2022, khi dịch bệnh đã được kiểm soát thì chỉ số này quay về mức 5,92, tương đương với giai đoạn trước đại dịch. Khi so sánh với các quốc gia khác đã trải qua giai đoạn phát triển tương đồng như Việt Nam thì hệ số ICOR của Việt Nam ở mức tương đối cao. Năm là, năng lực cạnh tranh của quốc gia vẫn ở mức thấp. Trong những năm qua, Việt Nam không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện môi trường đầu tư, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh cải cách hành chính… Tuy nhiên, thực tế vận hành của nền kinh tế Việt Nam cũng bộc lộ một số hạn chế như việc can thiệp vào cơ chế giá thị trường; khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn còn lớn; hệ thống văn bản pháp luật chồng chéo, tồn tại nhiều bất cập, một bộ phận cán bộ còn đùn đẩy, sợ trách nhiệm trong giải quyết công việc, tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đầu tư công vẫn còn xảy ra… Trong khi đó, Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) và Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam đang bị giảm so với các nước cùng mức thu nhập. 3. Một số hàm ý chính sách để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, thực hiện đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường trong quản lý, điều hành nền kinh tế vĩ mô. Chính phủ cần đẩy mạnh quá trình hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế; hoàn thiện thể chế tài chính doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp nhằm phục vụ quá trình sắp xếp, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, thực hiện phân bổ các nguồn lực xã hội theo cơ chế thị trường và theo các định hướng về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của Nhà nước. Đẩy nhanh quá trình hoàn thiện và phát triển đồng bộ các loại thị trường theo hướng hiện đại, nhất là thị trường chứng khoán, lao động, khoa học và công nghệ. Mặt khác, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền; thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thứ hai, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tập trung phát triển công nghiệp để tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, cần xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược công nghiệp tổng thể phù hợp với mô hình và bước đi về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu lại sản xuất theo hướng tăng hàm lượng khoa học và công nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa. Ưu tiên phát triển các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, lợi thế cạnh tranh. Chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ có nhu cầu lớn như dệt may, giày dép và linh kiện điện tử. Đồng thời, hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như ngân hàng, bảo hiểm, logistics và các dịch vụ khác. Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ, tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin… Thứ ba, đẩy mạnh tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện quyết liệt và hiệu quả cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước. Kiên quyết điều chỉnh để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lí. Tập trung đẩy mạnh thực hiện phương án sắp xếp, cổ phần hóa, góp phần tháo gỡ các vấn đề tài chính cho doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tín dụng nói riêng trong quá trình tái cơ cấu. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác xử lí những tồn tại về tài sản, tài chính, công nợ, xử lí lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; phân định quyền hạn và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước, cơ quan đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp, đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp. Thứ tư, ưu tiên nguồn lực đầu tư công để đầu tư các công trình quan trọng, thiết yếu, đáp ứng yêu cầu phát triển và đảm bảo kết nối các trung tâm kinh tế lớn, các đầu mối giao thông quan trọng. Đa dạng hóa hình thức đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng… Đồng thời, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực theo hướng đổi mới cơ cấu và phương thức đầu tư cho giáo dục và đào tạo; đa dạng hóa nguồn lực đầu tư, đổi mới cơ chế huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực ngân sách nhà nước cho phát triển khoa học và công nghệ… Tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học và công nghệ với sản xuất, phát huy sáng tạo, cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thứ năm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lí vĩ mô. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lí vĩ mô của nhà nước; nâng cao chất lượng công tác xây dựng chính sách, thực hiện phối hợp hiệu quả trong quản lí kinh tế vĩ mô; tăng cường công tác thông tin kinh tế - xã hội, công tác kế toán, thống kê, giám sát, quản lí rủi ro và bảo đảm an toàn về nợ công và nợ nước ngoài quốc gia. Đồng thời, cần chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ theo hướng bền vững, ổn định giá trị đồng tiền. Thực hiện các chính sách tín dụng, lãi suất, tỉ giá theo nguyên tắc thị trường; tăng cường hạ tầng tài chính bao gồm mở rộng và đào sâu dữ liệu tín dụng của người vay; giải quyết các thách thức về năng lực tài chính và bảo vệ người tiêu dùng và bảo mật dữ liệu. Tập trung xử lí nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. 4. Kết luận Mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP chưa được như kỳ vọng, năng suất lao động còn thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, năng lực cạnh tranh quốc gia còn hạn chế…; tuy nhiên, hai điểm quan trọng đã khẳng định Việt Nam chưa rơi vào bẫy thu nhập trung bình là: Việt Nam vừa đang bước vào ngưỡng nhóm các nước có thu nhập trung bình cao và Việt Nam đã thực hiện chuyển đổi phương thức phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu, thực hiện đồng bộ các biện pháp bảo đảm ổn định vĩ mô nền kinh tế. Để vượt qua bẫy thu nhập trung bình một cách có hiệu quả, Việt Nam cần khơi thông các nguồn lực phát triển cho nền kinh tế, quan tâm đến những động lực tăng trưởng dài hạn, đặc biệt quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy đầu tư vào các ngành công nghệ cao, ứng dụng chuyển đổi số để tạo giá trị gia tăng và động lực tăng trưởng.
1 Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2015), Thuật ngữ kinh tế, ngày 08/01/2015, tr. 6. 2 Hoàng Đức Thân và các cộng sự (2022), Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam đến năm 2030, https://tapchicongsan.org.vn, cập nhật ngày 09/5/2022. 3 Đỗ Thiên Anh Tuấn (2023), Giải ngân đầu tư công chậm vẫn là vướng mắc từ luật và thể chế, Báo Tuổi Trẻ cuối tuần, ngày 31/12/2023, tr. 9. 4 Tổng cục Thống kê (2023), “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2023”, https://www.gso.gov.vn, cập nhật ngày 29/12/2023. 5 Tô Trung Thành (2021), Năng suất lao động của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 47 6 Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tình hình kinh tế - xã hội năm 2023 tiếp tục xu hướng phục hồi, kinh tế vĩ mô ổn định, https://www.mpi.gov.vn, cập nhật ngày 31/01/2024.
Tài liệu tham khảo: 1. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2023), Giải ngân đầu tư công chậm vẫn là vướng mắc từ luật và thể chế, Báo Tuổi Trẻ cuối tuần, ngày 31/12/2023. 2. Nguyễn Minh Phong, Nguyễn Minh Tâm (2014), Việt Nam chủ động vượt qua bẫy thu nhập trung bình, Tạp chí Cộng sản (Chuyên san Hồ sơ sự kiện), ngày 25/11/2014. 3. Tô Trung Thành (2021), Năng suất lao động của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Hoàng Đức Thân và các cộng sự (2022), Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam đến năm 2030, https://tapchicongsan.org.vn, cập nhật ngày 09/5/2022. 5. Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2015), Thuật ngữ kinh tế, ngày 08/01/2015. 6. Tổng cục Thống kê (2023), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2023, https://www.gso.gov.vn, cập nhật ngày 29/12/2023.
Phát triển bởi Hemera Media
Bản quyền thuộc về VnEconomy, Tạp chí điện tử của Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam
Mọi tin bài đăng lại từ website này phải có sự chấp thuận bằng văn bản của VnEconomy.
Các trang ngoài sẽ được mở ra ở cửa sổ mới. VnEconomy không chịu trách nhiệm nội dung các trang ngoài.
Trụ sở: Số 96-98 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội
Quan điểm của ông về thực trạng xuất nhập khẩu của Việt nam hiện nay?
Việt Nam trong khoảng thời gian ngắn hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu đã trở thành một trong những thị trường sản xuất năng động nhất trên thế giới. Trong 5 năm, tính đến năm 2015, lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng lần lượt 18% và 14% mỗi năm. So với các nước có tỷ lệ xuất nhập khẩu hàng năm thấp hơn 5% như Philippines và Thái Lan, nền kinh tế Việt Nam đang có sự phát triển nhanh rõ ràng. Sự sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cũng tăng trưởng nhanh hơn so với các thị trường lân cận.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào hàng nhập khẩu phi nông nghiệp của Việt Nam, có thể thấy ngành công nghiệp sản xuất vẫn đang trong thời kỳ sơ khai. Điều này phản ánh vai trò quan trọng của các linh kiện nhập khẩu có giá trị cao trong việc hỗ trợ ngành công nghiệp sản xuất của Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ.
Việt Nam thường được xem như là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu. Vậy vai trò của nhập khẩu đối với các doanh nghiệp là gì thưa ông?
Trong chuỗi giá trị toàn cầu, hầu hết các nhà sản xuất Việt gần như tập trung nhập khẩu hoặc nhập linh kiện từ các nước khác và sau đó sử dụng các linh kiện này để lắp ráp hoặc sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Các sản phẩm này sau khi được hoàn thành sẽ được xuất khẩu tới người tiêu dùng trực tiếp ở nước ngoài.
Có thể hiểu được lý do tại sao nhiều công ty sản xuất trong nước có xu hướng tập trung chủ yếu vào xuất khẩu. Các doanh nghiệp này đang tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng và phát triển nhóm khách hàng của mình. Tuy nhiên, các nhà sản xuất trong nước cũng phải nhận thức rằng tăng cường quản lý nhập khẩu có thể nâng cao năng suất và lợi nhuận.
Quản lý nhập khẩu hợp lý sẽ giúp các nhà sản xuất làm chủ tiến độ và giảm thiểu rủi ro chậm trễ. Hơn nữa, nếu các nhà sản xuất nhận được những linh kiện và nguyên liệu thô sớm hơn, họ sẽ có thể xây dựng chuỗi cung ứng linh hoạt hơn và hoàn thành nhiều đơn hàng hơn.
Các doanh nghiệp và SMEs phải đối mặt với những thách thức gì trong quá trình nhập khẩu?
Chúng tôi nhận thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) thường đối mặt với các vấn đề giống nhau trong việc nhập khẩu. Rất nhiều nhà nhập khẩu thiếu sự kiểm soát chặt chẽ trong quá trình vận chuyển linh kiện. Hầu hết nhà xuất khẩu là người đưa ra quyết định về điều khoản vận chuyển, phương thức thanh toán và hoàn thiện giấy tờ hải quan. Điều này có nghĩa nhà nhập khẩu phải tin tưởng nhà xuất khẩu một cách tuyệt đối.
Ngoài ra, bên nhập khẩu phải đối mặt với nhiều vấn đề khác như bảo mật thông tin và năng suất. Những thách thức mà các doanh nghiệp lớn hay nhỏ đều phải đối mặt suy ra cùng là thời gian và chi phí.
Ông có thể nêu ra cụ thể một số giải pháp UPS cung cấp để giúp các nhà nhập khẩu Việt Nam vượt qua những thách thức kể trên được không?
Tại UPS, chúng tôi cố gắng cung cấp một giải pháp toàn diện cho khách hàng, cho phép họ quản lý toàn bộ quá trình vận chuyển và tạo nhãn vận chuyển mà không cần phải dựa vào bên xuất khẩu, cho phép người nhập khẩu có thể quyết định loại hình dịch vụ nào sẽ phù hợp hơn với mỗi lô hàng trong nước của họ.
Tùy thuộc vào lô hàng nhập khẩu đến từ đâu, UPS có thể gửi đến Việt Nam trong vòng 1-3 ngày làm việc. Dịch vụ nhanh chóng và đảm bảo này cũng được áp dụng cho các lô hàng pallet lớn. Đối với lô hàng ít khẩn cấp hơn, chúng tôi có thể vận chuyển tiết kiệm trong thời gian từ 3-5 ngày quá cảnh tùy thuộc vào nguồn gốc và nước xuất khẩu. Các dịch vụ chúng tôi cung cấp sẽ giúp các doanh nghiệp cân bằng chi phí và thời gian tốt hơn trong khi vẫn duy trì tiến độ sản xuất.
Ngoài ra, chúng tôi cũng có các giải pháp hỗ trợ các nhà nhập khẩu trong việc tuân thủ các quy tắc thương mại. Giải pháp trực tuyến của chúng tôi giúp bên nhập khẩu hoàn thành các thủ tục giấy tờ cần thiết dễ dàng hơn khi họ có thể tìm mã số thuế quan và kiểm tra quy định nhập khẩu thương mại nhanh chóng và chính xác, giúp giảm thiểu rủi ro sai sót và chi phí phát sinh.
Theo ông, làm thế nào để dự tính sự thay đổi về nhập khẩu trong thời gian trung và dài hạn? Nhập khẩu có thể sẽ tăng trưởng hơn xuất khẩu không? và nó có thể có tác động gì đến các doanh nghiệp và nền kinh tế.
Nếu Việt Nam phát triển giống như Trung Quốc, nhập khẩu sẽ tăng trưởng nhanh hơn xuất khẩu khi có sự gia tăng số lượng tầng lớp trung lưu. Nhà nước sẽ tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ trong vài thập kỷ tới nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hóa của hàng hóa sản xuất trong nước. Mục đích là để đảm bảo 70% nhu cầu của ngành công nghiệp sản xuất trong nước sẽ được cung cấp bởi các ngành công nghiệp hỗ trợ nội địa. Tuy nhiên, các ngành công nghiệp hỗ trợ cũng sẽ cần thời gian để phát triển, vì vậy chúng tôi nhìn thấy đà tăng trưởng trong nhập khẩu, với nguồn gốc đa dạng hơn sẽ hỗ trợ ngành công nghiệp sản xuất trong nước phát triển.
Thương mại điện tử cũng sẽ thúc đẩy sản lượng nhập khẩu vào Việt Nam. Theo Bộ Công Thương tổng doanh thu bán hàng trực tuyến đạt 4,9 tỷ USD trong năm 2015, tăng 22,5% so với năm 2014 và xu hướng mua sắm trực tuyến này sẽ còn tiếp tục. Do đó, nhập khẩu hàng hóa thương mại điện tử sẽ tăng và mở ra cơ hội cho ngành công nghiệp hậu cần trong nước để bù đắp nhiệm vụ giao hàng cho người tiêu dùng.
Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới thường niên lần thứ 14 (World Economic League Table) của Trung tâm tư vấn CEBR (Anh) vừa công bố đánh giá VN là nền kinh tế lớn thứ 34 năm 2023 với quy mô GDP 434 tỉ USD. Vị trí này dự kiến có thể tăng nhanh, đạt thứ 24 vào năm 2033 và sau đó trở thành nền kinh tế lớn thứ 21 thế giới vào năm 2038 với quy mô GDP lên đến 1.559 tỉ USD. Với ưu thế dân số đông và trẻ, VN có cơ hội vượt qua gần hết các nước trong ASEAN về kinh tế như Singapore, Thái Lan hay Malaysia, và trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.
CEBR nhận định: VN tăng trưởng mạnh, lạm phát duy trì ở mức thấp, tức là chưa phải đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát như nhiều quốc gia khác. Mức tăng giá tiêu dùng năm 2023 cũng thấp hơn tỷ lệ lạm phát trung bình 10 năm, là 3,8%. Điều này tạo dư địa trong chính sách điều hành tiền tệ của VN. Cùng đó, tỷ lệ thất nghiệp giảm trong năm ngoái giúp thúc đẩy chi tiêu của người tiêu dùng; tỷ lệ nợ Chính phủ năm 2023 dự kiến 35% GDP, giảm khoảng 1,3 điểm phần trăm so với 2022.
Sản xuất tại Công ty TNHH ĐiệnTử Meiko Việt Nam (Hà Nội) - vốn Nhật Bản
VN cũng được hưởng lợi từ sự dịch chuyển của chuỗi cung ứng toàn cầu. Tỷ trọng hàng Việt xuất sang Mỹ tăng gần 2% từ khi căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang vào năm 2018. Điều này cũng được bổ sung bởi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ từ các nền kinh tế châu Á khác, bao gồm cả Trung Quốc. Điều này có thể đưa VN đạt được mục tiêu đề ra là trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.
Trước đó, tháng 10.2023, báo cáo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra dự báo GDP của VN sẽ tăng trưởng 5,8% trong năm 2024, nằm trong nhóm 20 nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới. Giới chuyên gia IMF bày tỏ lạc quan về triển vọng trong trung hạn, với mức dự báo tăng trưởng GDP sẽ đạt 6,9% vào năm 2025. Báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới (WB) cũng dự báo mức tăng trưởng GDP của VN lên 5,5% vào năm 2024 và 6% vào năm 2025. Các chính sách hỗ trợ nhu cầu ngắn hạn, dỡ bỏ các rào cản trong việc thực hiện đầu tư công và giải quyết các hạn chế về cơ sở hạ tầng có thể giúp nền kinh tế đạt được các mục tiêu này và thúc đẩy tăng trưởng dài hạn. Ngân hàng Thế giới cho rằng môi trường bên ngoài đầy thách thức và nhu cầu trong nước yếu hơn đang khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế ở VN chậm lại. Tuy nhiên, nền kinh tế sẽ tăng tốc trong những năm tiếp theo.
Sản xuất tại Công ty TNHH INOAC Việt Nam (Nhật Bản tại KCN Quang Minh, Mê Linh, Hà Nộ
Chuyên gia kinh tế, PGS-TS Nguyễn Thường Lạng (Đại học Kinh tế Quốc dân), nhận xét VN đang có nhiều lợi thế để có triển vọng kinh tế tốt hơn và thậm chí có thể có thứ hạng cao hơn theo dự báo của bảng xếp hạng CEBR công bố vì một số lý do sau. Thứ nhất là có cơ hội lớn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đặc biệt, nếu ngành công nghiệp bán dẫn thành công theo chiến lược đề ra, các lĩnh vực số bứt phá, tận dụng triệt để thành tựu công nghệ và áp dụng đồng bộ…; chắc chắn quy mô nền kinh tế VN sớm vượt mốc ngàn tỉ USD. Thứ hai, bên cạnh tiềm năng về ngành công nghiệp bán dẫn, nông nghiệp vẫn là mảng mà VN đang có thế mạnh. Trong khó khăn như năm 2023, xuất khẩu nông thủy sản đã có bứt phá ngoạn mục, góp phần quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu. Đáng lưu ý, VN đang hướng đến chiến lược phát triển nông nghiệp công nghệ cao, một ngành từng đưa nền kinh tế tại các quốc gia phát triển lên đỉnh cao trong thế kỷ trước và giá trị của nó đến nay vẫn còn nguyên vẹn. VN là quốc gia đi sau, đang phát triển, xu hướng toàn cầu có thể khác, hướng đến nông nghiệp xanh, thân thiện môi trường… Nếu song song phát triển công nghiệp bán dẫn, VN chú trọng đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao, sẽ tạo thế vững chãi cho nền kinh tế, tạo thế mạnh, cạnh tranh với khu vực châu Á và nhiều nước đang phát triển toàn cầu.
Quy mô nền kinh tế VN lần đầu tiên được ghi nhận đạt mốc 400 tỉ USD vào cuối năm 2022, tăng hơn 10 lần so với năm 2000. Báo cáo của Tổng cục Thống kê cho thấy, kết thúc năm 2023, GDP cả nước tăng 5,05% so với năm trước với quy mô theo giá hiện hành đạt hơn 10,22 triệu tỉ đồng, tương đương 430 tỉ USD. GDP bình quân đầu người năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284,5 USD, tăng 160 USD so với năm 2022. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 199,3 triệu đồng/lao động (tương đương 8.380 USD/lao động, tăng 274 USD so với năm 2022); theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 3,65% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2023 ước đạt 27%, cao hơn 0,6 điểm phần trăm so với năm 2022).
Nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã chọn Việt Nam làm nơi sản xuất
Theo GS-TS Nguyễn Mạnh Quân, Viện trưởng Viện nghiên cứu doanh nghiệp, VN có thể hoàn toàn trở thành quốc gia có thu nhập cao trong 10 - 15 năm tới nếu cải tiến mạnh mẽ thể chế và năng suất lao động. Ông Quân phân tích, các dự báo về tăng trưởng kinh tế của VN từ các tổ chức nghiên cứu, khảo sát trên thế giới đa số rất khả quan. Chúng ta cần xem đó là động lực để tăng tốc điều chỉnh chính sách, thể chế để đạt được, chứ không phải nghe rồi để đó. Trong bối cảnh thế giới còn quá nhiều biến động, nền kinh tế VN vẫn giữ được sự ổn định về an ninh, kiềm chế được lạm phát, số doanh nghiệp (DN) mới tăng trở lại, thu hút vốn FDI, đầu tư tư nhân tăng… là các tín hiệu cực kỳ tích cực. VN cần có đánh giá mức độ tăng trưởng bao nhiêu, định lượng rõ hơn để tăng tốc phục hồi chứ không thể "đủng đỉnh" mà gặt hái thành quả được. Quan trọng hơn, để tiến đến vị thế quốc gia có thu nhập cao, quan trọng nhất lúc này là năng suất lao động. VN luôn bị nhận xét kém tích cực về năng suất lao động, trong khi một trong các yếu tố giúp tăng trưởng là năng suất và hiệu suất lao động.
Một hoạt động triển lãm công nghệ
"Khái niệm năng suất lao động nay đã khác nhiều. Không phải năng suất cá nhân, mà là năng suất tập thể. Đó là khả năng hợp tác, hiệu quả của sự hợp tác theo chuỗi, theo nhóm, nhấn mạnh đến hiệu ứng hài hòa, nhịp nhàng, đồng bộ. Như vậy, chính DN tạo ra năng suất lao động, năng suất cho nền kinh tế thông qua đầu tư con người, máy móc tốt, tận dụng tối đa công nghệ, năng suất, hiệu quả công việc tăng. Thế nên, chính DN là đối tượng hấp thụ chính sách nhanh, tiêu hóa chính sách tốt nhất để thúc đẩy tăng trưởng, đẩy mạnh thu nhập", ông Quân dẫn giải và nhấn mạnh: VN cần tiếp tục chú trọng đào tạo nguồn nhân lực trong các lĩnh vực công nghệ, công nghiệp. Hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vẫn đang rất cần nguồn lao động có chuyên môn cao, khả năng tiếp cận công nghệ nhanh. Dẫn ví dụ về chiến lược phát triển công nghệ bán dẫn được Chính phủ đưa ra trong năm qua khá quyết liệt, chuyên gia này cho rằng, phát triển chíp là cơ hội lớn cho VN, giúp tăng đột biến thu nhập, nếu thành công. Công nghệ bán dẫn tóm tắt chủ yếu ở 3 khâu: thiết kế, chế tạo và đóng gói. VN đang ở khâu đóng gói và có chế tạo. Khả năng thiết kế hoàn toàn thực hiện được, nhưng đào tạo nguồn nhân lực lớn lúc này đang được một số trường đại học triển khai thực hiện và mọi thứ còn khá mới mẻ. Thậm chí, một trường chuyên đầu tư bán dẫn cũng chưa có.
"Chíp là cơ hội cực lớn đưa VN lên là quốc gia có thu nhập cao sớm hơn dự báo, nhưng chíp cũng tạo thách thức lớn cho VN trong giai đoạn tới. Muốn tạo ra đột phá, phải có tiêu chí mới, cách làm mới, tư duy mới, phải mạnh dạn bỏ cách tư duy phương pháp cũ trong đào tạo đại học…", GS-TS Nguyễn Mạnh Quân nhấn mạnh.
Các chuyên gia cũng lưu ý trong vòng 10-15 năm tới, dự báo kinh tế VN có bước nhảy vọt nhờ yếu tố dân số vàng. Tuy vậy, theo thống kê về cơ cấu dân số thì đến năm 2036, VN sẽ qua thời kỳ dân số vàng và bắt đầu đối diện với già hóa dân số. Thế nên, muốn tận dụng tốt thời kỳ "dân số vàng" và kể cả có giải pháp ứng phó kịp thời thời kỳ "dân số già", cần phải tập trung quyết liệt vào việc nâng cao chất lượng dân số. Trong đó, đầu tư cho y tế, giáo dục và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tránh nguy cơ lãng phí thời kỳ cơ cấu dân số vàng là rất quan trọng. Chuyên gia kinh tế, TS Đinh Thế Hiển phân tích: Năm vừa qua VN rất thành công về nông nghiệp. Lúa gạo, cà phê đều được mùa, giá cao và năng suất của nhiều lĩnh vực đã lên cao. Tuy nhiên, thu nhập của người nông dân cũng không thể tăng cao. Mẫu số chung của nhiều nước có thu nhập bình quân đầu người cao (bỏ qua lợi thế về tài nguyên) nằm ở một số vấn đề. Đó là đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, tôn trọng bản quyền tác giả. Kế đến là đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, mang tính cạnh tranh lành mạnh, chống gian lận thương mại. Từ đó các hoạt động nghiên cứu khoa học, khởi nghiệp sẽ phát triển mạnh hơn; tạo ra được nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao, cạnh tranh được với thế giới. Khi sản phẩm được thương mại, bán ra cho nhiều nước thì quy mô các DN mở rộng, thu nhập người lao động sẽ tăng.
"Nguồn nhân lực của VN vẫn được đánh giá cao. Chất lượng đào tạo của các trường học vẫn tốt. Điều quan trọng là phải có môi trường khuyến khích, trong đó đảm bảo được quyền sở hữu trí tuệ để nhiều nghiên cứu phát triển được thành sản phẩm thương mại. Từ đó VN mới có thêm nhiều sản phẩm công nghệ, có giá trị gia tăng cao hơn những sản phẩm xuất khẩu truyền thống hiện nay. Giá trị gia tăng cao sẽ góp phần đưa quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân người lao động được cải thiện mạnh, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình thấp", TS Đinh Thế Hiển nói.
Còn PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhấn mạnh: "Muốn đạt được các thành tựu trên, phát triển nội lực mạnh là rất quan trọng. Để quy mô nền kinh tế tiến đến ngàn tỉ USD, VN chú trọng hiện đại hóa hạ tầng giao thông, đầu tư công phải được đẩy mạnh và nhanh hơn nữa. Năm qua, kinh tế VN không bị lao đao một phần nhờ tăng tốc đầu tư công. Để phát triển nội lực, những yếu tố vĩ mô cần chú trọng là cải cách hành chính, đẩy mạnh đầu tư công và tư; chú trọng đào tạo, tăng năng suất lao động".